Phản ứng quá mẫn đã được báo cáo ở những bệnh nhân có biểu hiện quá mẫn cảm với các thuốc đối kháng chọn lọc thụ thể 5HT3 khác.
Nên điều trị triệu chứng các biến cố hô hấp và các bác sĩ lâm sàng phải đặc biệt chú ý đến chúng như tiền thân của các phản ứng quá mẫn.
Ondansetron kéo dài khoảng QT theo kiểu phụ thuộc liều. Ngoài ra, các trường hợp xoắn đỉnh đã được báo cáo hậu mại ở những bệnh nhân sử dụng ondansetron. Tránh dùng ondansetron ở bệnh nhân bị hội chứng QT dài bẩm sinh. Ondansetron nên được dùng thận trọng cho bệnh nhân có hoặc có thể kéo dài QTc, bao gồm bệnh nhân có bất thường điện giải, suy tim sung huyết, loạn nhịp tim hoặc bệnh nhân dùng các sản phẩm thuốc khác dẫn đến QT kéo dài hoặc bất thường điện giải.
Hạ kali máu và hạ magiê máu nên được điều trị trước khi dùng ondansetron.
Đã có các báo cáo hậu mại mô tả bệnh nhân có hội chứng serotonin (bao gồm tình trạng tâm thần thay đổi, bất ổn tự trị và bất thường thần kinh cơ) sau khi sử dụng đồng thời ondansetron và các thuốc serotonergic khác (kể cả thuốc ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI) và các thuốc ức chế tái hấp thu noradrenalin serotonin (SNRI)). Nếu điều trị đồng thời với ondansetron và các loại thuốc serotonergic khác được bảo đảm lâm sàng, nên theo dõi bệnh nhân.
Do ondansetron làm tăng thời gian vận chuyển trong ruột già, bệnh nhân có dấu hiệu tắc nghẽn đường ruột bán cấp cần được theo dõi sau khi dùng.
Ở những bệnh nhân dùng ondansetron phòng ngừa buồn nôn và nôn trong phẫu thuật amidan vòm có thể che lấp xuất huyết. Do đó, những bệnh nhân này nên được theo dõi cẩn thận sau khi dùng ondansetron.
Thuốc tiêm Ondansetron Bidiphar 8mg/4ml chứa ít hơn 1 mmol natri (23 mg) mỗi ống 4 ml dung dịch tiêm, nói cách khác về cơ bản là “không chứa natri”.
Trẻ em:
Trẻ em được cho dùng ondansetron với các tác nhân hóa trị độc gan nên được theo dõi chặt chẽ suy giảm chức năng gan.
CINV:
Khi tính liều dựa trên mg/kg và dùng 3 liều cách nhau 4 giờ, tổng liều hàng ngày sẽ cao hơn nếu dùng một liều đơn 5 mg/m2 và 1 liều uống tiếp sau đó. Hiệu quả so sánh của hai phác đồ dùng thuốc khác nhau này chưa được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng. So sánh giữa các thử nghiệm cho thấy hiệu quả tương tự cho cả hai phác đồ.