Trong các điều kiện khuyên dùng, điều trị này không phải là ngừa thai.
Trong trường hợp bị chảy máu tử cung , Utrogestan không được dùng cho tới khi xác định được nguyên nhân, bằng cách khám nội mạc tử cung.
Do không thể loại trừ hoàn toàn các nguy cơ huyết khối tắc mạch và chuyển hóa, nên ngưng điều trị trong các trường hợp sau: Rối loạn mắt như mất thị lực, nhìn đôi, tổn thương mạch máu võng mạc Thuyên tắc tĩnh mạch hoặc huyết khối tắc mạch, bất kể vị trí nào
Đau đầu nặng Nên kiểm tra chặt chẽ ở bệnh nhân có tiền sử viêm tĩnh mạch huyết khối
Trong trường hợp vô kinh đột ngột, phải chắc chắn là không mang thai
Trên phân nửa số trường hợp bị sẩy thai sớm tự phát là do tai biến di truyền. Ngoài ra, các trường hợp nhiễm trùng và các rối loạn cơ học có thể là nguyên nhân gây sảy thai sớm. Vì vậy, dùng progesterone có thể làm chậm việc tống phôi chết (hoặc gián đoạn thai kỳ không tiến triển). Chỉ nên dùng progesterone cho những trường hợp mà sự chế tiết của hoàng thể bị suy giảm. Chỉ nên dùng Progesterone trong quý đầu của thai kỳ và bằng đường âm đạo. Có thể bị một số tác dụng phụ trên gan nếu sử dụng thuốc trong quý 2 và quý 3 của thai kỳ.
Phụ nữ mang thai và cho con bú: Không có chống chỉ định khi dùng Utrogestan trong thai kì kể cả trong những tuần đầu thai kì. Chưa có nghiên cứu cụ thể Progesteron có đi qua sữa mẹ hay không, nên tránh dùng Progesteron khi đang cho con bú.
Lái xe và vận hành máy móc: Khi lái xe hay vận hành máy móc cần phải lưu ý rằng uống thuốc này có thể gây buồn ngủ và/hay cảm giác chóng mặt. Để tránh tác dụng phụ này nên dùng thuốc vào buổi tối
Ðường uống:
Liều dùng trung bình là 200 đến 300mg progesterone mỗi ngày, chia làm 1 tới 2 lần. Nghĩa là 200mg vào buổi tối trước khi đi ngủ và 100mg vào buổi sáng nếu cần. Trong suy hoàng thể (hội chứng tiền kinh nguyệt, bệnh vú lành tính, kinh nguyệt không đều, tiền mãn kinh): điều trị 10 ngày cho mỗi chu kỳ, thường bắt đầu từ ngày thứ 17 đến ngày thứ 26.
Trong liệu pháp thay thế hormone: liệu pháp estrogen đơn thuần không thích hợp (do nguy cơ gây tăng sản nội mạc): bổ sung progesteron được kết hợp trong 2 tuần cuối của mỗi chu kỳ điều trị, sau đó ngưng toàn bộ các trị liệu thay thế trong khoảng 1 tuần, trong thời gian này có thể có xuất huyết do thiếu hụt hormone.
Dọa sinh non: 400mg Progesteron mỗi 6- 8 giờ tùy vào kết quả lâm sàng ở giai đoạn cấp tính , tiếp theo dùng liều duy trì (3x200mg/ngày) đến tuần thứ 36 của thai kì
Ðối với các chỉ định trên, có thể dùng đường âm đạo với liều tương tự với đường uống, trong trường hợp bệnh nhân bị bệnh gan và/hoặc có các tác dụng ngoại ý do progesterone (buồn ngủ sau khi uống thuốc).
Ðường âm đạo:
Liều trung bình là 200 mg Progesteron mỗi ngày (1 viên 200mg hoặc 2 viên 100mg chia làm 2 lần, 1 viên vào buổi sáng và viên vào buổi tối) đặt viên nang sâu trong âm đạo. Liều này có thể tăng tùy vào từng bệnh nhân.
Trường hợp hoàng thể bị thiếu một phần (do rối loạn rụng trứng, kinh nguyệt không đều): liều được khuyến cáo là 200 mg mỗi ngày, trong vòng 10 ngày cho mỗi chu kì, bắt đầu từ ngày thứ 17 tới ngày thứ 26.
Trường hợp vô sinh do pha hoàng thể bị thiếu hụt hoàn toàn (hiến noãn bào): Bổ sung cho liệu pháp estrogene: liều khởi đầu100mg vào ngày thứ 13 và 14của chu kì chuyển phôi, sau đó đặt mỗi lần 100mg vào buổi sáng và buổi tối từ ngày thứ 15 đến ngày thứ 25 của chu kỳ. Từ ngày thứ 26 và trong trường hợp bắt đầu có thai, liều được tăng thêm 100mg/ngày mỗi tuần để cuối cùng đạt đến liều tối đa 600mg mỗi ngày chia làm 3 lần. Duy trì liều này cho đến ngày thứ 60
Bổ sung cho pha hoàng thể trong chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (FIV): bắt đầu điều trị vào buổi tối ngày chuyển phôi với liều 600mg Progesteron mỗi ngày, chia làm 3 lần: sáng - trưa - tối.
Dọa sẩy thai hoặc phòng ngừa trong trường hợp bị sẩy thai liên tiếp do suy hoàng thể: liều được khuyến cáo là 200-400mg mỗi ngày, chia làm 2 lần cho tới tuần thứ 12 của thai kì